Tuy chính sử không ghi lại nhiều về triều đại Tây Sơn, nhiều tư liệu vào thời kỳ này đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu trong các gia phả của những nhân vật liên quan hoặc các câu chuyện kể.
Với trường hợp Thượng thư Trương Công Hy, văn tế nhân ngày húy kỵ của ông vẫn còn lưu lại trong hồ sơ gia tộc cùng những ghi chép khác sau đây cho thấy ông là vị quan có nhiều công trạng; đồng thời được nhân dân đương thời hết sức ngưỡng mộ nhờ đức thanh liêm:
Đoạn Tế văn sau đây, sưu tầm được trong tộc phả nhân ngày húy kỵ của ông từ hơn một trăm năm trước:
Hường Ân Thuận Hóa, Huệ trạch tài lương
Triều Thánh đế lịch đợi tuyên dương
Chánh đương Thượng thơ Hình bộ
Quyền sai Quảng
Nam
ngoại trấn
Khâm sai đại thần
Phụng thủ chưởng nhứt phương...
Cụ Tú Nguyễn Hữu Học ở Xóm Chay làng Thanh Quýt cách đây tròn thế kỷ cũng đã viết nhân ngày húy kỵ:
Nhớ người xưa, hiền từ phúc hậu
Cả cuộc đời trọn hiếu tận trung
Với cháu con rộng lượng bao dung
Với đất nước trọn đời chung thủy
Lộc lớn vua ban nhường cho dân chúng
Cơ nghiệp người xây hiến cúng gia tiên
Ôi tấm gương Cao tổ triết hiền
Đời thường nhắc, cháu con luôn ghi nhớ
Một nén hương dâng người thiên cổ
Nguyện trọn đời theo gương sáng người treo.
Cụ Trương Hữu Y (hay Trương Công Y) hậu duệ đời 12 của Thượng thư kể rằng từ nhỏ ông đã nghe truyền tụng: Khi phong trào Tây Sơn khởi nghĩa cần vương (Phù tôn Dương) được sự hưởng ứng tích cực của toàn dân đã có những câu:
Nghĩa kỳ dựng tại Tây Sơn
Tận trung báo quốc rửa hờn cho dân
(Ca dao)
Là một trí thức vốn bất bình trước chế độ cát cứ, đất nước bị rẻ phân, lòng dân ly tán, Thượng thư Trương Công Hy từng nuôi dưỡng khát vọng:
Thùy phân thùy hợp mạc tri hà
Nam
Bắc tòng lai nhị nhất gia
(Ai chia ra, ai hợp lại không biết tự bao giờ/
Nam
bắc từ lâu vẫn một nhà)
Ông Y cũng kể rằng: Lễ tang của Thượng Thư Trương Công Hy thời đó kéo dài đến 1 tháng, dòng họ dựng rạp làm chay để dân chúng khắp nơi đến viếng. Làng lúc đó phải dựng lên một “Xích hậu” tức nhà khách ở đầu đường vào nhà quan Thượng cho dân chúng trọ lại khi đến viếng. Con đường từ Xích Hậu đến nhà thờ tộc Trương hiện nay vẫn được dân chúng gọi là Ngõ Quan Thượng.
Bia đá tại lăng mộ ông được các con khắc:
NAM
CỐ
Tuế thứ Canh Thân niên Mạnh Thu cốc nhật
HIỂN KHẢO ĐẶC TẤN VINH LỘC THƯỢNG ĐẠI PHU
HÌNH BỘ THƯỢNG THƠ, TẶNG BINH BỘ THƯỢNG THƠ
THỤY TỊNH CUNG TRƯƠNG QUÝ CÔNG CHI MỘ
Hiển tử: TRƯƠNG CÔNG HỘ, CƠ, TOẠI, TÚY, SIÊU, ĐỀ
Đồng lập thạch
Trên lăng mộ xây dựng bằng đá vôi, ngoài hai linh vật là hai con nghê hầu chầu nay vẫn còn, còn có hai đôi câu đối ghi nhớ công đức to lớn của ông còn giữ lại sau hơn 2 thế kỷ:
Hạc phi Bắc lĩnh cơ sở tráng/ Long tụ Đông hoàn dẫn nguyên trường
Và:
Chánh tích vạn niên thùy vũ trụ/ Nhân ân thiên tải dĩ tôn chi.
Sau hai thế kỷ, lăng mộ Thượng thư Trương Công Hy và uy linh của ông lại một lần nữa đóng góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lịch sử Đảng bộ xã Điện Thắng đã ghi lại: Trên cơ sở giá trị lịch sử to lớn của khu lăng mộ, Đảng bộ xã lúc đó 1969) đã bí mật cử người vào Sài Gòn để gặp hậu duệ đời 12 của Thượng thư là ông Trương Công Cừu, lúc này đã thôi chức Bộ trưởng Giáo dục nhưng là một Nghị sĩ có uy tín của quốc hội Sài Gòn. Ông Cừu đã tác động đến giới quân sự lúc đó ngưng tiến hành công trình xây dựng hàng rào điện tử phòng thủ Đà Nẵng bằng cách cày ủi ngang qua lăng mộ Thượng thư Trương Công Hy tại làng Thanh Quýt. Việc bảo vệ khu lăng mộ này đồng thời cũng là bảo vệ phong trào cách mạng đang lên ở vành đai Đà Nẵng rất quan trọng lúc đó (Theo bản thảo đánh máy Lịch sử Đảng bộ xã Điện Thắng).
Đà Nẵng 2011
- Trương Điện Thắng -
Một Di bút còn lại từ thời Tây Sơn
Trong nhiều tài liệu của gia tộc họ Trương Công tại làng Thanh Quýt, chúng tôi vừa tìm thấy có nhiều tài liệu quý giá viết bằng chữ Hán cách đây hơn 200 năm như các bản khai đất đai của quan Thượng thư Trương Công Hy do chính tay ông viết trong nhiều thời kỳ khác nhau, khi là Tri phủ Điện Bàn, khi là Trấn thủ Quảng Nam trấn, khi là Khâm sai đại thần Hình bộ Thượng Thư dưới các triều đại nhà Tây Sơn. Chữ ông viết trên giấy dó với nét cứng cáp tự tin, nét chữ đá lên mạnh mẽ khác với nét chữ của 5 người con trai của ông (cũng khai đất đai vào thời vua Gia Long sau đó). Sau đây là các bản phiên âm tờ khai đất đai vào năm Thái Đức bát niên, ngày 24 tháng 8 với chữ ký, gồm 6 trang, có ấn và các dấu kiềm rải rác trên văn bản.
1- CÁC BẢN KHAI ĐẤT ĐAI KHI LÀM TRI PHỦ ĐIỆN BÀN
-Tờ 1:
“Điện Bàn phủ, Diên Khánh huyện, phụ điền thổ Thanh Quýt xã, Tri phủ Thùy Ân tử Trương Công Hy.
“Thân khai
“Nhứt thừa khai do tư hữu từ truyền kế điện nhị phủ các huyện thuộc tổng xã thôn phỏng thần dân đẳng cứ khai công tư điền thổ thực trang nhứt nhị tam đẳng cập lưu hoang, phế canh tiên chiếm đẳng hạng đông tây tứ cận, thảng hữu điền đa thuế thiểu hứa tiên trưng giả đắc chi tư thừa khai bỉ phân thiệt canh tư thổ tổ phụ lưu lai tại bổn xã địa bộ, khai thiệt vu thứ Thanh Loa xứ.
“Tư thổ vô thuế dĩ hạ:
Do thử thổ tùng điền vô thuế.
-Nhứt sở thổ nhứt khoảnh tam cao điền tổ phụ hương hỏa lưu lai bỉ canh
Đông cận lão Luận thổ viên
Tây cận bỉ tư thổ viên.
Nam
cận lão Chánh tư điền
Bắc cận lão Nhiêu Khánh tư điền
Do thử thổ tùng điền vô thuế
-Nhứt sở thổ nhứt khoảnh nhị cao,
Trương Công Túy nhứt cao, Trương Công Toại2 nhứt cao, do tổ phụ lưu lai bỉ canh thổ viên do hữu khế trác mại thất liểu.
Đông cận hương hỏa thổ tịnh Nhiêu Khánh tư thổ, Tây cận Giáp Hưu tư thổ, Nam cận bổn tộc thổ viên, Bắc cận mẹ Vú tư điền thiệt canh
Do thử thổ tùng điền vô thuế
-Nhứt sở thổ nhứt khoảnh nhị cao Trương Công Hộ dụng hộ do tổ phụ lưu lai hứa bỉ canh, do hữu khế trác mại thất liểu.
Đông cận lão Toản, lão Thạnh tư điền thiệt canh.
Tây cận lão Toản, lão Ất thập tứ bài tư thổ
Nam
cận lão Hưng tư điền phế canh
Bắc cận lão Toản tư thổ, do thử thổ tùng điền vô thuế
-Nhứt sở thổ nhứt khoảnh nhứt cao do tổ phụ lưu lai hứa canh Trương Công Cơ2 do hữu khế trác thất liểu,
Đông Cận Nhiêu Khánh tư thổ
Tây cận lão Vĩnh tư thổ
Nam
Cận Nhiêu Khánh tư thổ
-Nhứt sở thổ nhứt khoảnh nhứt cao do bỉ tạo trí hữu khế, do thử thổ tùng điền vô thuế (Trương) Công Hộ đối kỵ công (mất hai chữ)
Đông cận lão Đôn tư thổ
Tây cận lão Hưng tư thổ
Nam
cận Cha Tán tư thổ
Bắc cận lão Chánh tư thổ
Lệ Thủy xứ:
-Nhất thổ tư thổ khư ( bỏ trống) nhứt khoảnh tứ cao do hoang phế tiên chiếm.
Đông cận tư điền, Tây cận tư điền,
Nam
Bắc cận tư điền.
Dĩ thượng hữu tự chỉ nhị trương tịnh dĩ khai báo tường tận quả như đương nội tịnh thiệt hựu biên bỉ canh tư thổ đa gian khai thiểu cập ẩn phế ngoại lậu tự nhứt xích dĩ thượng cam thọ gia tài nhập quan, tái thọ tử tội tư biện.
PHÓ CHẤP BẰNG
PHỤ CHÁNH
Thái Đức bát niên, bát ngoạt nhị thập tứ nhựt
Thân đơn khai Tri phủ Trương Công Hy ký
Tờ 2:
Điện Bàn phủ, Diên Khánh huyện, Đông An xã, bổn thổ Tri phủ Thùy Ân tử Trương Công Hy.
Thân kê:
-Nhứt thừa khai do thần hữu tạo mãi tư thổ viên trạch tại địa phận Đông An xã, liệt kê vu thứ:
Bến Giá xứ:
-Nhứt sở tư thổ trạch nhứt khoảnh nhứt cao do tiền Trùm Hòa bổn tộc mại đoạn hứa thần hữu khế bị thất liễu
Đông Cận lộ tịnh Khách Hựu thổ trạch
Tây cận tiền Thầy Chiểu thổ trạch
Nam
cận mụ Thủ Thanh thổ trạch
Dĩ thượng hữu tự chỉ nhứt trương tịnh khai báo tường tận qua như đơn nội, nhược thử thổ đa gian khai thuộc thiểu hậu chỉnh đạc lai tự nhứt xích dĩ thượng cam thọ gia tài một nhập quan tái thọ tử hình tư biên.
PHÓ CHẤP BẰNG
PHỤ CHÁNH
Thái Đức Bát niên, bát ngoạt nhị thập cửu nhựt
Thân khai Tri phủ Thùy ân Tử Trương Công Hy ký.
BẢN KHAI ĐẤT KHI LÀM KHÂM SAI QUẢNG
NAM
TRẤN VÀ HÌNH BỘ THƯỢNG THƯ
Bản viết tay của Thượng Thư Trương Công Hy năm Cảnh Thịnh ngũ niên (1798), trước khi mất hai năm ( cụ mất năm 1800).
Điện Bàn phủ, Diên Phước huyện, Thanh Quýt trung tổng, Thanh Quýt xã, Khâm sai Quảng Nam trấn, Hình bộ Thương thư Thùy Ân Hầu
Kê:
Tỵ văn thân giả nải thân chi, chi tử giả ly, ngô chi lý lạc ngã quan chi ngũ..., giả vô phụ quách chi điền.
Tuy ngô thọ thiên niên, khởi tẩy đông phương chi tủy, sở hữu tiền phụ mẫu di lai điền thổ kỷ mẫu tắc phụng định tiên nhơn, hương hỏa nhứt tắt quân phân. Chúng tử dĩ phân cập (mất chữ)tuyệt tự bất thất, cung tang kính tử. Cụ hữu (mất chữ) xứ sở tịnh liệt du thứ. Thanh ly xứ tư điền:
....
(Phần giữa ghi rõ diện tích đất vườn, đất ruộng cho 5 người con trai, đất để lại làm nhà thờ tộc phái...)
Cọng tư thổ các sở: nhứt mẫu, tam cao, cửu xích
Cảnh Thịnh ngũ niên
(mất ba chữ) thành tự ký.
NHẬN XÉT
Căn cứ vào các tài liệu do chính Thượng thư Trương Công Hy viết nêu trên, ta có thể thấy:
1- Việc kê khai ruộng đất của các quan chức dưới thời Tây Sơn khá chặt chẽ, chính xác. Các bản khai đều cam đoan không thiếu, không dư. Man khai sẽ bị thu hồi và bị án tử hình nếu tái phạm.
2- Sau khi về nghỉ hưu, gia sản của một vị Thượng thư chỉ có một mẫu, ba sào, chín thước đất từ thổ do ông bà cha mẹ để lại để chia cho 5 người con và dành diện tích thỏa đáng để xây dựng nhà từ đường của tộc.
3- Đất (cả hương hỏa và tư điền tư thổ) của ông hồi đó đều không chịu thuế, do ông từng đỗ Nhiêu học ( đệ Tam khóa) và Hương Cống ( Đệ tứ Khóa) thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát nên được miễn thuế, theo chính sách khuyến khích nhân tài lúc đó.
*(Hai bản dịch này do cụ Trương Công Y (đời thứ 12) để lại cho cụ Trương Công Cầu và bản sau do cụ Nguyễn Hữu Cơ người làng Thanh Quýt phiên âm ngày 6.6.2010.
[1] Theo truyền miệng từ xưa, ruộng công thần của ngài bao trùm cánh đồng Lai Nghi- Phú Chiêm thuộc huyện Điện Bàn, ngài đã giao lại cho dân hai xã canh tác, không nhận bất cứ một huê lợi nào. Chúng tôi đi điền dã tại làng Thanh Chiêm năm 1998 với nhà dân tộc học Nguyễn Tùng ( Trung tâm quốc gia nghiên cứu Khoa học Pháp) cũng đã nghe những người lớn tuổi tại đây gọi cánh đồng trên là “Đồng quan Thượng”
[3] Từ câu cổ văn: Cố lão danh thần giai triệu dụng.